
1. Thuyết đấu giá
Thuyết đấu giá ra đời chủ yếu từ các nghiên cứu của J.P. Steidlmayer về Market Profile. Sau đó, cùng với các tác giả khác như James Dalton và Donald L. Jones, họ đã định nghĩa một loạt các khái niệm cấu thành lý thuyết này.
Thuyết đấu giá dựa trên một thực tế: mục tiêu ưu tiên của thị trường là tạo điều kiện thuận lợi cho sự thương lượng giữa các bên tham gia ,và theo các nguyên tắc của luật cung cầu, nó sẽ luôn vận động để tìm kiếm sự hiệu quả, còn được gọi là sự cân bằng hoặc hợp lý của giá.
Hiệu quả tức là khi người mua và người bán thoải mái đàm phán và không bên nào có quyền kiểm soát rõ ràng. Sự thoải mái đó đến bởi vì, dựa trên điều kiện thị trường hiện tại, định giá của cả hai đều rất giống nhau. Cách thức mà sự cân bằng này được quan sát trực quan trên biểu đồ là khi giá ở trong một vòng lặp (trading range). Sự phân bố giá đó thể hiện sự cân bằng này. Nó là bằng chứng về sự thuận lợi của đàm phán và nó là trạng thái mà thị trường luôn tìm kiếm.
Mặt khác, chúng ta có những thời điểm kém hiệu quả hoặc mất cân bằng và việc này được thể hiện trong các chuyển động có xu hướng. Khi thông tin mới xuất hiện trên thị trường, nó có thể khiến người mua và người bán thay đổi nhận định của họ về giá trị một tài sản và gây ra sự bất đồng giữa họ. Một trong hai sẽ nắm quyền kiểm soát và tạo ra mức giá nằm ngoài vùng cân bằng trước đó, mang lại cơ hội kiếm lời cho chúng ta. Điều hiển nhiên trong tình huống này là thị trường không tạo điều kiện tốt cho việc đàm phán và do đó đây được coi là một thời điểm thị trường hoạt động kém hiệu quả.
Thị trường sẽ không ngừng vận động trong việc tìm kiếm và xác nhận giá trị; trong các tình huống khi người mua và người bán đang giao dịch. Việc này diễn ra là do người mua và người bán xác định mức giá như nhau. Tại thời điểm đó, cuộc đàm phán giữa hai bên tạo ra một vùng cân bằng mới. Chu kỳ này lặp đi lặp lại nhiều lần mà không gián đoạn.
Ý tưởng chung là thị trường sẽ di chuyển từ vùng cân bằng này sang vùng cân bằng khác bằng các chuyển động theo xu hướng và những chuyển động này xuất hiện khi có sự khác nhau giữa người mua và người bán trong cảm nhận về giá trị hiện tại và tạo ra sự mất cân bằng. Thị trường lúc đó bắt đầu định hình một vùng mới cho sự đồng thuận về giá trị giữa hầu hết những người tham gia.
Cần lưu ý rằng phần lớn thời gian của thị trường là ở trong vị thế cân bằng. Điều này hợp lý vì bản chất của thị trường là dựa trên việc giao dịch thuận mua vừa bán giữa những người tham gia. Đây là nơi diễn ra các quá trình tích lũy và phân phối, mà như chúng ta đều biết là nơi phương pháp luận của Wyckoff hướng tới.
1.1 Các biến
Quá trình đấu giá trên thị trường tài chính được thực hiện dựa trên giá trị. Để cố gắng giải mã giá trị đó nằm ở đâu, có ba yếu tố cần được xem xét:
Giá: Trong cơ chế đấu giá, giá được sử dụng như một công cụ thăm dò. Việc đàm phán được dựa trên sự thay đổi của giá, giá dao động lên xuống theo các mức khác nhau để thăm dò sự phản ứng của những người tham gia. Những thay đổi giá này đưa ra các cơ hội. Nếu những người tham gia nhận thấy mức giá đưa ra là hợp lý, họ sẽ thương lượng trao đổi. Ngược lại, nếu những họ thấy mức giá mới này không hấp dẫn, họ sẽ từ chối
Thời gian: Khi thị trường thúc đẩy một cơ hội (đạt đến mức hấp dẫn), nó sẽ quy định khoảng thời gian mà cơ hội đó tồn tại.
Giá sẽ dành rất ít thời gian ở những khu vực có lợi cho một trong hai bên (người mua hoặc người bán)
Một khu vực hiệu quả hoặc cân bằng sẽ được thể hiện rõ qua đặc điểm là giá tôn nhiều thời gian ở đó hơn; trong khi một khu vực kém hiệu quả hoặc mất cân bằng sẽ được thể hiện bằng đặc điểm là giá dành ít thời gian ở đó hơn.
Khối lượng: Khối lượng đại diện cho hoạt động, số lượng đã được trao đổi từ một tài sản. Ở một mức độ nhất định khối lượng cho biết thị trường có hào hứng hay không.
Dựa trên khối lượng, có những khu vực có giá trị hơn những khu vực khác. Quy tắc cơ bản là nếu thấy càng nhiều hoạt động trong một khu vực nhất định, thì những người tham gia thị trường càng gán cho nó nhiều giá trị.
Price + Time + Volume = Value
Giá + Thời gian + Khối lượng = Giá trị
Ba yếu tố này cung cấp cho chúng ta một quan điểm hợp lý về giá trị của một tài sản, mức giá trị này là do những người tham gia thị trường tin tưởng đánh giá dựa trên các điều kiện hiện tại.
Thông qua giá cả, thị trường khám phá ra các mức mới, việc tốn nhiều thời gian cho thấy rằng có một số sự chấp nhận trong khu vực mới đó và cuối cùng, việc tạo ra khối lượng xác nhận rằng những người tham gia đã tạo ra một vùng giá trị mới nơi họ thoải mái giao dịch ( cả hai bên đều hài lòng với mức giá đó )
Như chúng ta biết, các điều kiện đang thay đổi và do đó cần phải liên tục đánh giá lại các yếu tố này. Biết được giá trị nằm ở đâu là chìa khóa vì nó xác định điều kiện của thị trường và dựa trên điều này, chúng ta có thể đưa ra các ý tưởng hành động khác nhau.
1.2 Nhận thức về giá trị
Thị trường liên tục luân chuyển giữa hai giai đoạn: phát triển theo chiều ngang (cân bằng) hoặc phát triển theo chiều dọc (mất cân bằng). Phát triển theo chiều ngang gợi ý sự đồng thuận giữa các bên tham gia trong khi phát triển theo chiều dọc là khi thị trường tìm kiếm giá trị mới, tìm kiếm một bên còn lại của giao dịch.
Thực tế là giá đang di chuyển thoải mái trong một phạm vi giao dịch (đi ngang) thể hiện sự chấp nhận trong khu vực đó, đó là bối cảnh mà giá cả và giá trị trùng khớp theo ý những người tham gia. Khi thị trường ở trong một xu hướng (phát triển theo chiều dọc) giá cả và giá trị không trùng khớp với nhau; trong bối cảnh này, giá sẽ di chuyển tăng và giá trị sẽ theo sau hoặc không đi theo (như một dấu hiệu của sự chấp nhận và từ chối).
Trong vùng cân bằng, mức giá cân bằng nhất sẽ nằm ở giữa và các điểm ở cực đại và cực tiểu của range sẽ đại diện cho các mức không cân bằng hoặc không được người tham gia chấp nhận.
Dựa trên thực tế là giá trị cân bằng nhất nằm ở giữa phạm vi, việc chuyển đến điểm ở vùng cao hơn sẽ được người mua coi là một giá đắt và đồng thời người bán sẽ coi đó là giá rẻ, vì vậy họ hành động dẫn đến việc giá trở lại khu vực cân bằng nhất. Tương tự như vậy, việc di chuyển đến vùng thấp hơn của phạm vi sẽ được người mua coi là rẻ và người bán cho là giá không tốt, điều này sẽ gây ra sự dịch chuyển tiếp tục tăng.
Trong bối cảnh này, chúng ta tìm cách mua ở mức thấp và bán ở mức cao với hy vọng rằng giá sẽ tiếp tục từ trối các điểm cực đó. Và thông thường thị trường sẽ tiếp tục như vậy cho đến khi các điều kiện thị trường thay đổi.
Điều thú vị sẽ xảy ra khi sự mất cân bằng xuất hiện và giá rời khỏi vùng giá trị. Điều gì sẽ xảy ra sau đó? Khi giá rời khỏi một phạm vi giao dịch, sự thay đổi trong nhận thức về giá trị có thể xảy ra.
Nhiệm vụ của các nhà giao dịch bây giờ là đánh giá xem các mức báo giá mới này được chấp nhận hay bị từ chối. Biến giá đi trước hai biến số khác trong việc xác định các khu vực giá trị tiềm năng, nhưng chính biến thời gian là yếu tố đầu tiên và biến khối lượng là yếu tố sau cùng sẽ xác nhận liệu khu vực mới đó được chấp nhận hay bị từ chối.
Chúng ta nhận biết sự chấp nhận mọt một vùng giá mới mới khi mức giá đó được duy trì (trong một khoảng thời gian) và giao dịch giữa người mua và người bán bắt đầu thực hiện (với một lượng khối lượng) – tất cả những điều này được thể hiện qua dấu hiệu là một chuyển động đi ngang trong biên độ nhất định của giá. Ngược lại, chúng ta nhận thấy sự từ chối khi giá nhanh chóng quay trở lại vùng giá trị cũ cho thấy sự thiếu quan tâm và được minh chứng là một cú bật ngược rõ ràng.
Quá trình đi ngang kết thúc khi không còn sự đồng thuận giữa những người tham gia về giá trị; trong khi tất cả các phát triển theo chiều dọc kết thúc khi giá đạt đến một vùng nơi lại có mà sự đồng thuận giữa họ. Đây là chu kỳ liên tục của thị trường. Bản thân ý tưởng này rất quyền năng và với cách tiếp cận phù hợp, các chiến lược giao dịch có thể được tạo ra từ ý tưởng này.
Như một trong những nguyên tắc phổ biến của phân tích kỹ thuật (Giá phản ánh tất cả), chúng ta không cần phải đi sâu vào tìm hiểu điều gì thực sự tạo ra sự thay đổi trong nhận thức về giá trị của những người tham gia thị trường. Chúng ta biết rằng dựa trên các điều kiện hiện tại, dựa trên thông tin mà chúng ta có tại chính thời điểm đó, tất cả những người tham gia sẽ đưa ra sự định giá cho tài sản. Sau đó, có thể có thứ gì đó xảy ra ở mức độ cơ bản ( nền tảng ) đã làm thay đổi nhận thức này của họ, nhưng điểm tốt của cách tiếp cận này là chúng ta không cần biết và giải thích những yếu tố, sự kiện nào đã xảy ra làm dẫn tới sự thay đổi trong nhận thức của những người tham gia.
Điều quan trọng cần nhấn mạnh là thuyết đấu giá này là một lý thuyết chung và do đó nó phục vụ chúng ta để đánh giá bất kỳ loại thị trường tài chính nào mà không bị ảnh hưởng bởi yếu tố khung thời gian.
1.3 Bốn giai đoạn vận động của thị trường
Đây là một quá trình mà Steidlmayer miêu tả cho các giai đoạn khác nhau mà thị trường đã trải qua trong quá trình phát triển các chuyển động của nó.
Bốn giai đoạn là:
- Giai đoạn có xu hướng: Giá phát triển theo chiều dọc,có sự mất cân đối nghiêng về một bên ( bên mua hoặc bên bán).
- Giai đoạn dừng: Các nhà giao dịch bắt đầu xuất hiện theo chiều hướng ngược lại và dừng xu hướng trước đó lại. Các giới mức hạn trên và dưới của range được hình thành
- Giai đoạn đi ngang: Giá phát triển chiều ngang. Hai bên thoải mái đàm phán xung quanh mức giá dừng và trong giới hạn của phạm vi cân bằng mới ( range ).
- Giai đoạn chuyển đổi. Giá rời khỏi range và sự mất cân bằng khiến giá bắt đầu tìm kiếm giá trị mới. Chuyển động này có thể là sự đảo ngược hoặc tiếp tục của xu hướng trước đó
Khi giai đoạn chuyển tiếp kết thúc, thị trường đang ở vị trí để bắt đầu một chu kỳ mới. Quy trình này sẽ được phát triển mà không bị gián đoạn và có thể quan sát được trên mọi khung thời gian.
Ở giai đoạn thứ ba, bạn sẽ thấy một volume profile có dạng P hoặc b. Sự hình hình dạng này của volume profile cũng như đề xuất của một loại hoạt động dựa trên nó sẽ được xem xét kĩ hơn sau này
Đối với những nhà giao dịch cấu trúc, quy trình bốn giai đoạn này đã trở nên quen thuộc với họ, vì về bản chất, nó chính xác là sự phát triển từ Phase A đến Phase E do phương pháp Wyckoff đề xuất.
- Dừng xu hướng trước đó
- Xây dựng nguyên nhân
- Kiểm tra phe đối lập
- Bắt đầu thay đổi xu hướng
- Xác nhận xu hướng
Mặc dù Richard Wyckoff, cũng như các học trò sau này của ông và các nhà giao dịch khác, những người đã đóng góp vào việc phân tích các ý tưởng của ông chỉ dựa trên các công cụ phân tích và các nguyên tắc của phân tích kỹ thuật, chúng ta thấy rằng họ đã ít nhiều làm việc với các khái niệm được đề xuất trong thuyết đấu giá mặc dù họ không sử dụng các điều khoản như vậy.
Đây là lý do tại sao nó được coi là cách tiếp cận duy nhất để phân tích kỹ thuật dựa trên một logic thực sự cơ bản: thuyết đấu giá và luật cung cầu.